19:01
A+ A-

Điều trị phòng bệnh cách chữa viêm họng hạt cấp mãn tính ở trẻ em

Họng là một khoang trống , gồm 3 đoạn là: Họng mũi ở trên nối liền với cửa mũi sau; họng miệng ở giữa nối liền với miệng mà ranh giới là màng hầu và lưỡi gà và họng thanh quản ở dưới ở dưới nối liền với thực quản và thanh quản. Viêm họng là tình trạng viêm niêm mạc họng bao gồm các lớp liên bào , các tuyến , các nang lympho tản mát hoặc tập trung thành từng khối. 
1. Định nghĩa 

Họng là một khoang trống , gồm 3 đoạn là: Họng mũi ở trên nối liền với cửa mũi sau; họng miệng ở giữa nối liền với miệng mà ranh giới là màng hầu và lưỡi gà và họng thanh quản ở dưới ở dưới nối liền với thực quản và thanh quản. 


Viêm họng là tình trạng viêm niêm mạc họng bao gồm các lớp liên bào , các tuyến , các nang lympho tản mát hoặc tập trung thành từng khối. 
2.Triệu chứng 

Viêm họng có nhiều thể loại: Viêm họng hạt mãn tính, viêm họng mãn tính ( viêm họng mãn tính có thể đặc biệt được xếp thành bệnh riêng là bệnh viêm họng hạt ) , Viêm họng đặc hiệu: Viêm họng Vincent , viêm họng có màng giả do Bạch hầu ( Klebs – Loefler ). 
Viêm họng cấp ( hoặc làm gọi là viêm họng đỏ ) 

Triệu chứng ban sơ thường là: Cảm giác khô nóng và rát trong họng , nuốt nói cảm thấy vướng , sau thời gian ấy có xu hướng gia tăng so với bình thường thành đau trong họng , nói khó hoặc nuốt khó , ho khạc nhưng thường không có đờm mà chỉ ra ít nước nhày. Bệnh nhân có thể thấy mỏi mệt , sốt nhẹ ớn lạnh; hoặc sốt cao 38 – 39 độ C trong viêm cấp tính hoặc kèm theo viêm Amidan , cúm nhiễm virut… Triệu chứng sổ mũi ngạt mũi , hắt hơi , nhức đầ , ù tai thường kèm theo ở trường hợp viêm họng do cúm , dị ứng thời tiết , do lạnh… Khám họng thấy: toàn bộ hoặc một phần niêm mạc họng đỏ rực. Màn hầu , trụ trước , trụ sau và thành sau họng phùng phìu , đỏ thẫm. Ngoài ra còn có thể thấy: amidan viêm to , trên bề mặt amiđan có chất nhầy trong. Khám các hạch vùng cổ dưới hàm có thể viêm tấy , đỏ , đau

http://sotaynhatki.blogspot.com/2017/03/bai-thuoc-nam-ong-y-chua-tri-benh-viem.html

Các triệu chứng trên có thể biến diễn 3 – 4 ngày rồi lui dần và mất đi do chữa trị hoặc tự khỏi do sức để kháng của cơ thể. 

Xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch huyết cầu tăng cao ( hoặc có thể không tăng trong trường hợp căn nguyên là do vi rút trong giai đoạn đầu ) , tốc độ máu lắng tăng , chỉ số CRP ( C Reaction Protein ) dương tính. Xét nghiệm nhày họng , bằng biện pháp nhuộm đơn thấy nhiều tế bào bạch huyết cầu , vi khuẩn ( trực khuẩn hoặc cầu khuẩn ). Nhuộm bằng biện pháp gram có thể thấy cầu khuẩn gram dương ( xếp đôi , hoặc thành đám hoặc đứng riêng rẽ ) hoặc thấy cả xoắn trùng Vincent. Ví như có hoàn cảnh nuôi cấy chất nhày họng sẽ chính xác được loại vi khuẩn gây viêm họng cấp , trên tài sở đó thực hành kháng sinh đồ để chọn kháng sinh phù hợp cho việc điều trị. 
Viêm họng mãn tính 
Triệu chứng sinh dưỡng 

Bệnh nhân cảm thấy khô họng , nóng rát trong họng hoặc có cảm giác ngứa họng , vướng họng nhất là khi ngủ dậy , phải cố khạc đờm , đằng hắng để làm long đờm , đờm dẻo và đặc thường có xu hướng gia tăng so với bình thường khi nuốt. Bệnh nhân thường phải khạc nhổ luôn , có ít nhầy quánh. Ho nhiều vào ban đêm , khi lạnh , nuốt hơi nghẹn. Tiếng nói bị khàn trong giây lát , khạc hoặc hắng dặng thì tiếng trở lại thông thường. Khi uống rượu , hút thuốc lá nhiều , Nhiều lời , triệu chứng trên càng trở thành rõ rệt. 
Khám thực thể 

Bệnh viêm họng ở trẻ em mãn tính gồm 4 thể – Một là: Viêm họng mãn tính sung huyết đơn thuần. màng nhầy họng đỏ , nổi nhiều tia mao mạch máu. 

– Hai là : Viêm họng mãn tính xuất tiết. Thành sau họng có tăng xuất tiết nhầy , trong , hơi dính vào màng nhầy , chảy từ vòm xuống hạ họng , Transitority mất tích khi bệnh nhân nuốt. Màng nhầy họng cũng đỏ và nổi nhiều tia mao mạch máu. 

– Ba là: Viêm họng mãn tính quá phát. Màng nhầy họng đỏ và dày lên. Tổ chức bạch huyết ở thành sau họng phát triển mạnh , quá phát thành từng đám to nhỏ không đều , màu hồng hoặc đỏ. Có khi tập kết thành một dải gồ lên ở phía sau và dọc theo trụ sau của amidan trông như một trụ sau thứ hai gọi là “trụ giả”. Thể này gọi là viêm họng hạt. 

-Bốn là: Viêm họng teo. Màng nhầy họng teo dần , những tuyến nhầy dưới màng nhầy cũng teo đi làm cho màng nhầy họng từ đỏ thẫm tạo thành màu hồng rồi nhợt nhạt , khô và đọng những vảy mỏng , vàng , khô bám vào từng chỗ. Màng nhầy họng trở thành mỏng , các trụ sau cũng teo biến đi làm cho họng trở thành rộng hơn. Viêm họng teo thường là viêm họng do công việc hoặc ở phụ lão hoặc ở những người trĩ mũi. 
Viêm họng hạt ( Thể đặc biệt của viêm họng mãn ) 

biểu hiện của bệnh viêm họng hạt là cảm giác vướng víu , ngứa rát luôn luôn trong họng; ho và khạc đờm quánh dính hoặc trắng nhầy luôn luôn ( nhất là sáng sớm , khi ngủ dậy ). Nhiều Người đau yếu do ngứa họng nên hay khậm khạc , đằng hắng. Khám tại chỗ thấy thành bên họng hơi đỏ , thành sau họng có những hạt trắng hồng. Màng nhầy họng đỏ và dày lên , có lẽ có lẽ có những ổ loét dễ nhầm với bệnh nhiệt miệng . Tổ chức bạch huyết ở thành sau họng phát triển mạnh , quá phát thành từng đám to nhỏ không đều , màu hồng hoặc đỏ , lâu ngày các đám này thu gọn lại thành những hạt to nhỏ hình thù khác nhau ( viêm họng hạt ). Có khi tập kết thành một dải gồ lên ở phía sau và dọc theo trụ sau của amidan trông như một trụ sau thứ hai gọi là “trụ giả”. 
Viêm họng đặc hiệu 
Viêm họng do liên cầu khuẩn 

Do liên cầu khuẩn tan huyết bê ta nhóm A ( Group A Beta-hemolytic streptococcus – GABHS ) gây ra Đây là một viêm họng truân hiểm vì có biến chứng sang viêm khớp cấp , viêm màng trong tim cấp hoặc kinh niên gây hẹp hở van tim , viêm cầu thận cấp …. Bệnh do liên cầu khuẩn gây ra. Do cấu tạo vỏ của vi khuẩn gần giống cấu tạo của tổ chức liên kết ( bao khớp , màng tim , màng thận… ) khi bị nhiễm liên cầu khuẩn , cơ thể đặc tính ra đời kháng thể chống vi khuẩn hiện đại kháng thể này cũng dung giải luôn chính tổ chức của mình tạo thành bệnh tê thấp cấp , viêm cầu thận , viêm màng tim ( thấp tim )… Triệu chứng lâm sàng thường không có dị biệt nhiều với các viêm họng cấp khác , Chẩn đoán xác định dựa vào xét nghiệm nuôi cấy hoặc soi tươi dịch họng thấy có liên cầu khuẩn. 

Trên lâm sàng dựa vào một số yếu tố bắt buộc để phát hiện viêm họng do liên cầu bêta tan huyết nhóm A: 

– Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện sốt cao 30 -40 độ C , người mệt mỏi. 

– Khám họng thấy có mủ trắng bẩn ở khe , hốc amidan hai bên. Sờ thấy hạch dưới hàm cả hai bên , di động , ấn đau. 

– bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao khi lấy máu làm xét nghiệm. 

– Để khẳng định chính xác , người ta cần quệt dịch nhày ở họng đem soi tươi , nuôi cấy tìm liên cầu gây bệnh cùng với việc tiến hành định lượng kháng thể kháng liên cầu trong máu qua đặc tính ASLO: tăng tỷ lệ chậm và không liên tục ( thường là trên 300 đơn vị Todd ). 
Viêm họng do bạch hầu : ( Klebs – Loefler ) 

Bệnh bạch hầu: thường xảy ra thành dịch. Khám họng thông thường có giả mạc , giả mạc gắn chặt vào màng nhầy , khi bóc ra thì chảy máu , giả mạc mọc rất nhanh , lan ra các trụ và màn hầu , giả mạc không tan nhà. Bệnh cảnh nhiễm trùng , nhiễm độc rõ. Hạch cổ , dưới cằm nổi nhiều và nhanh 
Viêm họng Vincent 

Viêm họng Vinvent thuộc nhóm viêm họng loét , do vi khuẩn hình thoi và xoắn khuẩn sống ký sinh ở họng. Khi gặp điều kiện tiện lợi như cơ thể suy yếu , rối loạn dinh dưỡng hay sâu răng , viêm amiđan nó sẽ làm rối loạn dinh duỡng màng nhầy họng và gây loét. Thường gặp ở người trẻ , bắt đầu một cách âm thầm: sốt nhẹ , mệt mỏi , cảm giác nóng rát họng , nuốt đau nhất là với chất rắn ở một bên họng. Khám họng: thấy trên mặt aminđan một bên có giả mạc trắng. 

Giả mạc chỉ khu trú ở một bên amidan nhưng nhiều hơn và nhiều hơn nữa Phồng to ra. Giả mạc dày trắng đục , dễ lây , không dai mà trái lại dễ mủn , vỡ. Đặc biệt amidan bên kia vẫn bình thường 

Giả mạc tự rơi ra để lại vết loét nông , bờ nổi gờ , thành đứng , đáy màu xám bẩn có chỗ hoại tử. 

có lẽ có lẽ có sưng đau hạch sau góc hàm bên bệnh nhân. Với thể nặng có sốt cao , hạch cổ sưng to và đau , amiđan bên bệnh sưng to , các trụ và màn hầu nề , vết loét rộng , d đáy hoại tử rõ. Nuốt đau rõ rệt , hơi thở hôi. 

Tiến triển: Với trạng thái khỏe , có sức đề kháng tốt , sau độ 10 ngày thì vết loét tự lên nụ hạt , liền lại. Với trạng thái yếu , kém sức đề kháng , vết loét có lẽ có lẽ lan ra lưỡi , miệng. 

Bệnh cần chẩn đoán phân biệt với bệnh nhiệt miệng ( áp – tơ ) , nấm vùng miệng , hay tưa lưỡi. 
3. Chuẩn đoán 
Dựa vào thời gian của các triệu chứng. Hầu hết các trường hợp đau họng do nhiễm cấp tính liên cầu khuẩn và virus đều sẽ giảm trong vòng 5 đến 7 ngày. 
Dựa vào các triệu chứng bao quát của căn bệnh. 

chẳng hạn , các triệu chứng như sốt cao , đổ mồ hôi , đau cơ , mệt mỏi… đều có lẽ có lẽ cho thấy một trường hợp nhiễm trùng nghiêm trọng hơn. 

Dùng đèn soi để quan sát trực tiếp trong họng , tìm các mật hiệu của viêm amiđan ( những chỗ bọng mủ… ) hoặc tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn ( các mảng bựa trắng như sữa… ). 

Sờ vào hạch bạch huyết ở cổ để xác định xem có sưng to hay không. 

phần nhiều các xét nghiệm thường không có giá trị chẩn đoán trong các trường hợp đau họng , vì khi có Cuối cùng xét nghiệm ( sau vài ba ngày ) thì hầu hết bệnh nhân đều đã thuyên giảm. Tuy nhiên , xét nghiệm máu đặc biệt bắt buộc trong chẩn đoán tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Trong trường hợp xét nghiệm hàng đầu cho Cuối cùng âm tính , cần phải lặp lại sau đó 3 tuần , vì vào thời điểm này bệnh trở thành dễ phát hiện hơn. Nếu Cuối cùng âm tính nhưng bệnh nhân không có mật hiệu thuyên giảm sau 1 đến 2 tuần , cần tiếp lặp lại xét nghiệm. 

Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn thường được nghĩ đến khi phát hiện một màng trắng phía trên amiđan. Sờ vào hạch bạch huyết ở vùng cổ thông thường sưng to hơn. Thông thường các đốm xuất huyết trên hàm ếch và cũng có lẽ có lẽ phát hiện gan lách to. 

Loét trong miệng cũng gây đau họng , được phát hiện bằng quan sát trực tiếp. Hầu hết các trường hợp loét miệng là lành tính , nhưng nếu loét kéo dài hơn 6 tuần thì nên xét đến khả năng ung thư. 
4. Biến chứng 
Khô họng tác động tới việc ẩm thực thường ngày : viêm họng khô hoặc viêm họng teo dẫn tới họng bị khô , việc hùng biện nuốt nước dãi cũng đều cảm thấy cứng , cần phải uống nước liên tục để làm ẩm họng , thậm chí khi ăn cơm cũng phải uống nước canh mới có lẽ có lẽ nuốt được thức ăn. 
Ho , ngáy làm tác động tới việc nghỉ ngơi bình thường của người bệnh: họng ngứa thường gây ra những cơn ho kích ứng , hoặc do màng nhầy họng bị dầy lên , tác động đến Thở thông thường làm cho Người đau yếu thường ngáy khi ngủ. 
Dẫn đến những biến chứng khác như viêm mũi , viêm hầu , giảm thính lực…: tai mũi họng thông nhau , vì thế viêm họng kinh niên lan nhiễm lên trên đến tai , mũi , gây ra viêm mũi , viêm xoang cấp tính , viêm tai giữa cấp tính , phát triển xuống dưới có lẽ có lẽ tác động đến các cơ quan Thở như hầu , khí quản , rất truân hiểm cho sức khỏe con người. 
Viêm họng kéo dài có lẽ có lẽ gây ung thư: Khi bị đau họng kéo dài , nhiều người thường chủ quan và coi đó là một cảnh tượng bình thường. Họ không đi khám bác sỹ , cũng không tìm cách điều trị viêm họng , hậu quả là bệnh sẽ chuyển biến xấu và chuyển sang thời kì biến chứng. Một trong những biến chứng đáng tiếc của viêm họng hạt là ung thư vòm họng. Thực tế , dồi dào người sốc và hoang mang khi biết điều này , bởi họ không biết rằng việc đau họng kéo dài lại truân hiểm đến như vậy. 
Viêm họng kéo dài gây bệnh ở tim: Có nhiều vi khuẩn gây viêm họng , trong đó , liên cầu khuẩn tan huyết bêta nhóm A ( Streptococcus A ) khi xâm nhập vào họng , nếu không được điều trị triệt để sẽ gây thấp tim , tê thấp hay viêm cầu thận. Vỏ của vi khuẩn này có phần cấu tạo giống cơ tim , thận , khớp. Khi vi khuẩn xâm nhập , cơ thể sẽ tạo kháng thể tiến công vi khuẩn. Và cũng chính kháng thể này lại phá hủy mô nội mạc tim , gây bệnh thấp tim , bệnh van tim. Điều này xảy ra tương tự với thận và khớp. Khoảng 2 – 3 tuần sau viêm họng , bệnh nhân có lẽ có lẽ bị viêm các khớp: khuỷu tay , đầu gối , cổ chân… Cơn đau kéo dài từ 5 – 7 ngày. Song , nếu bệnh tái đi tái lại , gây tổn thương van tim , làm cho các lá van dày lên , xơ cứng có lẽ có lẽ dẫn đến hẹp van hai lá , hở van động mạch chủ. 
Viêm họng kéo dài gây tê thấp cấp: Tình trạng viêm cấp tính các khớp lớn xảy ra sau nhiễm liên cầu khuẩn. Các khớp bị viêm có biểu hiện sưng , nóng , đỏ và đau. Bệnh thường hay bị ở khớp gối , cổ chân , khuỷu tay hoặc cổ tay. Các khớp bị viêm có cảnh tượng di chuyển , khớp này bị sau đó khớp kia bị. Sau khi di chuyển thì khớp cũ không còn biểu hiện viêm. Biến chứng này nếu không được điều trị sẽ gây hỏng màng khớp và tác động tới vận hành Chỉ chung các sinh vật sau này. 
Viêm họng kéo dài gây viêm phổi: Mùa nắng nóng , các bé thích ăn kem , uống nước lạnh… nên thường dễ bị sốt , ho và chảy nước mũi. Những trường hợp bệnh nhẹ , do cuồng đãng kỹ , bé bị nhiễm lạnh , vi trùng từ đường Thở trên sẽ nhanh chóng tiến vào phế quản và phổi. 

Các bé biết nói sẽ dễ dàng báo cho phụ mẫu biết tình trạng mệt , khó thở , trong lúc đó , trẻ nhỏ hơn sẽ quấy khóc , biểu hiện cấm cảu nên phụ huynh dễ nhầm với việc mọc răng , cáu ngủ. Phổi bị viêm , đồng nghĩa với các túi khí ( phế nang ) sẽ chứa mủ , chất nhầy… gây thiếu ôxy , khó thở , nguy cơ tử vong cao. 

do đó , khi thấy bé có các mật hiệu viêm họng , ho , sổ mũi , quấy khóc , kém vui chơi… các bậc phụ mẫu cần đặc biệt lưu ý , nên nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế nếu thấy triệu chứng không thuyên giảm. Khi xuất hiện các triệu chứng như cơ thể tím tái , ngủ li bì , thở có tiếng rít… tức thị bệnh đã nặng , có lẽ có lẽ đe dọa tới tính mạng. 
5. Nguyên nhân 

Theo cấu tạo của cơ thể thì họng là ngã tư của đường thở và đường ăn , đó cũng là cửa cho mọi loại thức ăn , khí trời vào cơ thể qua đường thiên nhiên. Chính bởi thế mà thừa thãi yếu tố như : vi trùng , siêu vi khuẩn , tác nhân khác… có thể gây viêm họng. 
Viêm họng thường xảy ra do nhiễm siêu vi ( cúm ) , vi trùng , hoặc các bệnh về miễn dịch 


hàng đầu ( 85% ) là do virut , các loại virut có khả năng cao gây bệnh viêm họng gồm có: Rhinovirus , coronavirus và parainfluenza virus , Virut cúm A và cúm B , Viruts adenovirus , virus Epstein-Barr ( EBV ) , herpes simplex ( HPV ) thường gây ra lở loét lạnh… hơn thế nữa còn do các loại khác nhau của vi khuẩn : tụ cầu , liên cầu trong đó có liên cầu khuẩn tan huyết b nhóm A gây nhiều biến chứng gian truân , lậu cầu trùng , nấm ký sinh… 

thông thường viêm họng do nhiễm siêu vi bệnh sẽ tự giảm sau 1 tuần và không cần dùng thuốc kháng sinh. 
căn nguyên do vi trùng bệnh sẽ kéo dài và thường không tự khỏi , bệnh sẽ nặng thêm nếu không điều trị sớm. 
Các bệnh lý toàn thân cũng gây viêm họng và cần được phát hiện kịp thời để có hướng điều trị thích hợp. 

Chất kích thích và chất gây dị ứng có lẽ có lẽ làm cháy các lớp lót ở họng gây viêm họng , bao gồm: Chất gây kích ứng giải phóng vào khí trời như: Các dung môi hòa tan , xăng Công lao , thuốc xịt chứa hóa chất , khí lò than có chứa khí diêm sinh , khói bụi và uống rượu mạnh nồng độ cao sẽ đốt cháy lớp lót màng nhầy miệng , lạm dụng thuốc xông xịt mũi…. Nhiễm lạnh: Mùa đông lạnh , khí trời khô hanh là 1 điều kiện nảy sinh bệnh viêm họng , hoặc thay nhiệt độ rất bất ngờ bất thường. Thời tiết nóng bức sử dụng Hài hòa nhiệt độ nhiều , độ lạnh sâu thân hình chưa thích nghi kịp , da bị khô và dễ bị viêm họng. 
6. Điều trị 
vấn đề sử dụng thuốc kháng sinh 

Viêm họng do dồi dào căn nguyên làm nên , thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng trong trường hợp căn nguyên gây bệnh là vi trùng . Cứ viêm họng thì sử dụng thuốc kháng sinh là lạm dụng , đôi khi gây bất lợi , không phải lúc nào thuốc kháng sinh cũng là tuyển trạch tối ưu cho bệnh viêm họng. Châm ngôn điều trị là phải dựa vào căn nguyên gây bệnh , Chỉ dùng kháng sinh trong trường hợp chính xác được vi khuẩn là căn nguyên gây bệnh và có Cuối cùng của kháng sinh đồ thì nên tuyển trạch kháng sinh để điều trị cho thích hợp với tuổi , tình trạng bệnh và tính động học của kháng sinh. 

tuy nhiên không phải lúc nào , cơ sở khám bệnh nào cũng chính xác nhanh chóng căn nguyên gây bệnh là do vi trùng và cho kháng sinh đúng đủ liều lượng. Cấy họng hoặc làm xét nghiệm nhanh phết họng tìm Streptoccocus ( Cuối cùng có trong vòng 15 phút ) là biện pháp hiện tại dùng để chẩn đoán viêm họng do virut hay do vi khuẩn , thường chỉ thực hiện được ở các bệnh viện lớn có điều kiện cả về vật chất và thời gian , mặt khác xét nghiệm không thấy vi khuẩn thì chưa thể loại trừ được căn nguyên gây bệnh là vi trùng. Vậy thì , vấn đề cần đặt ra là: Khi nào Cần thiết kháng sinh trong viêm họng? 

Chỉ định dùng kháng sinh khi: Có Cuối cùng xét nghiệm tìm thấy vi trùng , có các triệu chứng kèm theo chính xác được căn nguyên là vi trùng như: có giả mạc trong bạch hầu , loét vincent , viêm amidan , họng có mủ , phì đại các hạch vùng cổ , họng sưng phù , cứng lưỡi và đau khi nuốt , xét nghiệm bạch cầu tăng cao….. 

Không dùng kháng sinh kh: Các triệu chứng toàn thân cũng như tại chỗ biểu lộ rõ đây là do vi rut , cảm cúm , viêm họng trong viêm mũi dị ứng thời tiết , bỏng hóa chất và các chất kích thích…. Căn nguyên do vi rut thường kèm theo triệu chứng viêm long đường Thở ( ho , sổ mũi , nhảy mũi , khàn tiếng… ) 

Nhiều trường hợp , do không có điều kiện hoặc rất khó phân biệt trong suốt căn nguyên gây bệnh thì nên cân nhắc việc dùng kháng sinh , xem xét kỹ càng , tiên đoán các diễn biến của bệnh để có liệu pháp kháng sinh phù hợp 

Các kháng sinh thường được sử dụng trong viêm họng là: Penicillin ( hoặc Ampicillin , Amoxicillin ) , Cephalosporins , Macrolides và Clindamycine. Thời gian làng nhàng để điều trị là 10 ngày ở nhóm dùng Penicillin hoặc 5 ngày ở nhóm dùng Cefpodoxime , Cefdinir , hoặc là Azithromycin. Kháng sinh nên phối hợp 2 loại trở lên để giữ lại cảnh tượng kháng thuốc. 
Đông y điều trị viêm họng 

Theo Đông Y , căn nguyên gây bệnh có nhiều , thường gặp là do nhiệt độc của phế vị xông lên và nhiễm khí độc của dịch lệ: 
Do nhiệt độc 

Triệu chứng: Có ho sốt nhẹ , nuốt thấy mắc mứu ở cổ họng , hoặc cảm thấy hơi đau. 

Điều trị: 

– Thuốc: ô mai me : 2g , Sài đất : 4g , Húng chanh : 2g. Sắc ngậm nuốt dần , hoặc giã sống ngậm nuốt nuốt dần. – Châm cứu : hợp cốc ( châm tả , Thiếu dương ( thích huyết ) , Thiên trụ ( bình bổ bình tả lưu kim 15′ ) 
Nhiễm khí độc 

Triệu chứng: Bệnh phát nhanh , sốt cao và rất bất ngờ tiếng không trong , ho tiếng nặng , trong họng có tiếng như kéo cưa , chân tay hơi lạnh , họng đỏ không có mảng trắng; Rêu lưỡi dày vàng , chất lưỡi đỏ. 

Điều trị: 

– Thuốc: Sơn đậu căn: 9g; cam thảo dây: 6g; Củ rẻ quạt: 8g; Sài đất: 20g. 

– Nước 400ml sắc lấy 150 ml. Mỗi lần cho uống 1-2 thìa cà phê , cách nửa giờ cho uống 1 lần. 

– Châm cứu: Dùng các huỵêt trên , nhưng tăng cường độ và thời gian. 
7. Phòng chống 

Khi mới thấy Lộ rõ ra các triệu chứng của bệnh viêm họng , Người đau yếu cần tới cơ sở y tế chuyên khoa tai mũi họng để khám phát hiện hoặc loại trừ loại viêm họng gian truân này và đưa ra biện pháp điều trị thích hợp nhất. Mỗi loại viêm họng đều có những căn nguyên khác nhau trừ những đợt có dịch. Mỗi căn nguyên lại gây ra những tổn thương đặc điểm mà dựa vào các ám hiệu có trên màng nhầy họng cụ thể khi đó thầy thuốc sẽ đưa ra cách Ứng phó hợp lý nhất như có dùng kháng sinh hay không dùng kháng sinh , nếu phải dùng thì sử dụng nhóm kháng sinh nào đem lại công hiệu cao cho bản thân Người đau yếu , tránh tình trạng lạm dụng thuốc. Cách điều trị tốt nhất là lấy dịch họng đem nuôi cấy chính xác loại vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ. 

điều trị thường phối hợp với tiệt khuẩn vùng họng bằng nước muối sinh lý ngậm họng , súc họng với dung dịch kiềm loãng. Khí dung mũi họng theo chỉ định bằng tinh dầu bạc hà , thuốc kháng sinh , thuốc chống viêm dạng hòa tan. Đắp khăn nóng vào hai bên cổ. 

Phòng bệnh rất biện pháp rất bắt buộc , đặc biệt khi có dịch viêm mũi họng. Giữ ấm vùng cổ , tránh ngồi , ngủ , tắm… ở nơi có gió lùa. Ăn nhiều hoa quả chứa nhiều vitamin C để tăng cường sức đề kháng của thân hình và mũi họng. 

Nhiều người lầm tưởng rằng , viêm họng là bệnh không lây. Song trên thực tế , nó là bệnh lây lan qua tiếp xúc trực tiếp hoặc xiên. Nếu ai đó xung quanh bạn đang bị viêm họng thì cách tốt nhất là tránh tiếp xúc với họ và rửa tay thường xuyên. 

Nếu bị viêm họng , bạn cũng nên rửa tay luôn luôn nhằm giữ lại sự lây lan của vi khuẩn khi bạn dùng tay che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi.